Saturday, October 5, 2013

MAY HE REST IN PEACE!







Võ Nguyên Giáp, như tôi từng biết



Bùi Tín (VOA)



Đại Tướng Võ Nguyên Giáp và nhà báo quân đội Bùi Tín.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua đời ngày 4/10/2013, quá tuổi 102, (đến 25-8-2011 là tròn trăm tuổi).


Thọ hơn 1 thế kỷ là cực hiếm, cực quý trong đời một người, vượt qua Đại Thọ Bách Niên. Người xưa nói khi nắp quan tài đậy lại là dịp luận bàn đánh giá đầy đủ về cuộc đời của người mới mất. Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử, đấu tranh chính trị và chiến tranh kéo dài, sự phân chia Nam Bắc sau trận Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ, do hòa giải hòa hợp dân tộc vẫn còn ở phía trước, nên việc đánh giá tướng Giáp còn là một vấn đề tranh cãi, tranh cãi quyết liệt, kéo dài, với những chính kiến khác nhau, xa nhau, trái ngược hẳn nhau. Đây là điều không có gì lạ. Cho nên một đánh giá thống nhất về tướng Giáp là điều khó xảy ra, là hoàn toàn ảo tưởng. Qua bài viết này, tôi giữ thái độ khách quan công bằng, cũng là tưởng niệm khi ông mới đi xa.


Tôi gặp tướng Giáp từ những ngày đầu khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Hà Nội. Năm 1948 - 1949 tôi gặp lại ông ở Bộ Tư lệnh Quân khu 4, thành phố Vinh. Sau 1955 tôi dự nhiều cuộc họp ở Bộ Quốc phòng - Tổng tham mưu, do tướng Giáp chủ tọa. Đầu tháng 5-1975, khi vào Sài Gòn tìm hiểu tình hình, ông điện chọn «nhà báo quân đội Bùi Tín làm người lên kế hoạch và hướng dẫn đại tướng thăm thú phố xá Sài Gòn - Chợ lớn, thăm gia đình vài anh chị em biệt động thành, thăm bà mẹ chiến sỹ tiêu biểu», trong 2 ngày, sau đó ông mới làm việc chính thức với Ủy ban Quân quản, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 và xuống Cần Thơ thăm Quân khu 9, tôi cùng đi theo.


Năm 1976 và 1977, tướng Giáp cầm đầu Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam đi thăm chính thức lần lượt các nước Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ba Lan, Hungary, Romania, Liên Xô. Tôi ở trong đoàn, làm Trợ lý báo chí cho Bộ trưởng kiêm phóng viên cho báo Quân đội Nhân dân, giúp ông theo dõi thời sự quốc tế, trả lời phỏng vấn của báo chí, truyền hình các nước, đồng thời làm tin về hoạt động hằng ngày của đoàn. Mỗi buổi sáng, Cục trưởng đối ngoại của Bộ Quốc phòng và tôi là 2 người thường ăn sáng riêng cùng tướng Giáp để báo cáo tình hình và bàn công việc trong ngày.




Những năm 1986, 1990 vào dịp Đại hội đảng CS khóa VI và chuẩn bị Đại Hội VII, ông thường nhắn tôi đến nhà riêng ăn cơm gia đình để tìm hiểu tình hình xã hội, quân đội, dư luận quốc tế. Ông là người ưa nghe hơn là nói, thường kín đáo, không cởi mở, ít bạn tâm giao; ông cũng không hút thuốc, không uống rượu, không uống cà phê, chỉ uống nước trà pha rất loãng, không đánh bài tulơkhơ để giải trí như các ông tướng khác. Một thời khi bị xét nét về cái gọi là vụ «án xét lại chống đảng» (1966-1967) ông giải tỏa tinh thần bằng cách học đánh đàn dương cầm, mới chơi được vài bài phổ thông, chưa chơi được bài cổ điển như Dòng sông Danube hay Phiên chợ Ba Tư.


Công danh và những điều hạn chế





Về tài năng, ông Giáp quả có tài, mới đứng vững trên vị trí chỉ huy cao nhất của Quân đội Nhân Dân từ 1946 cho đến 1982, nghĩa là suốt 36 năm, qua 2 cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt. Tất nhiên trong cơ chế lãnh đạo tập thể, còn có Bộ Chính trị, có Đảng ủy Quân sự Trung ương, có các tướng lãnh và sỹ quan giúp việc dưới quyền, lại còn có cố vấn quân sự Trung Quốc, Liên Xô và vài nước khác, nên những chủ trương chiến lược, chiến dịch thường được bàn bạc chung.


Như khi chủ trương mở chiến dịch Biên giới năm 1950, lúc đầu tướng Giáp đề xuất đánh vào thị xã Cao Bằng trước, nhưng các cố vấn Trung Quốc do tướng Trần Canh cầm đầu đề nghị đánh theo kiểu «công điểm diệt viện», trước hết đánh vào Đông Khê trên đường số 4, ở giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, tiêu diệt cả binh đoàn Charton từ Cao Bằng rút chạy và binh đoàn Lepage từ Lạng Sơn lên đón, đều bị tiêu diệt hay bắt sống ở ngoài công sự, khi hành quân trong rừng; kết quả là giải phóng luôn cả Cao Bằng, Lạng Sơn và một vùng biên giới rộng lớn, thu rất nhiều vũ khí, bắt nhiều tù binh. Biên giới Việt - Trung rộng mở là chuyển biến chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho những chến thắng sau này.





Về chiến địch Điện Biên Phủ, có thể nói chủ trương chiến dịch mang đậm tài năng chỉ huy của tướng Giáp. Năm 1989, nhân kỷ niệm 35 năm chiến dịch này, ông đã kể lại cho tôi nghe diễn biến cụ thể của chiến dịch, có ghi âm, được nhà văn Hữu Mai cùng dự ghi lại, thành bài hồi ký «Quyết định khó khăn nhất» đăng trên tuần báo Nhân dân Chủ nhật. Khi quân Pháp vừa nhảy dù xuống lòng chảo Điện Biên hồi cuối tháng 11-1953, Bộ Tổng tham mưu đã phác họa ngay kế hoạch bao vây và tấn công theo phương châm «đánh nhanh giải quyết nhanh» (khoái tả khoái diệt), theo học thuyết quân sự của Lâm Bưu khi địch mới lâm thời phòng ngự, chưa có hệ thống phong thủ vững chắc. Tổng cố vấn Vi Quốc Thanh và đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tán thành phương châm này, theo kiểu ồ ạt, thường gọi là «biển người». Đầu tháng 1-1954, tướng Giáp lên đến mặt trận, vòng vây được xiết dần, pháo lớn được kéo vào đặt trên sườn núi, được ngụy trang kỹ, với nhiều ụ pháo nghi binh, dự định khai hỏa vào lúc 18 giờ ngảy 26-1, dự tính sau 2 đêm 1 ngày sẽ diệt xong cả tập đoàn cứ điểm.


Nhưng cả đêm 25-1, tướng Giáp thao thức trăn trở về khả năng chiến thắng. Trưa 26-1 ông họp đảng ủy mặt trận cùng 3 tướng: Hoàng Văn Thái,Tổng tham mưu trưởng kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận; Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị Mặt trận; Đặng Kim Giang, Phó chủ nhiệm hậu cần kiêm Chủ nhiệm hậu cần Mặt trận. Sau khi nêu rõ tuyến phòng thủ đã trở nên kiên cố của quân Pháp, tướng Giáp đưa ra ý kiến ngừng cuộc tiến công, rút pháo ra phía sau, chuẩn bị lại theo phương châm «đánh chắc tiến chắc», nghĩa là: đánh dũi theo đường hào bao vây chia cắt, diệt từng cứ điểm, dùng chiếc xẻng cán ngắn làm công cụ tiến công chính. Cả 3 tướng Thái, Liêm, Giang đều sững sờ vì bị bất ngờ, muốn giữ nguyên phương châm cũ, vì bộ đội đã được động viên cao, chỉ chờ lệnh là xông tới, nay đình lại là như dội nước lạnh, sau này động viên trở lại rất khó. Đã xế chiều, tranh luận còn gay go, tướng Giáp hỏi lại rằng có ai tin là sẽ chắc thắng trăm phần trăm, theo phương châm cũ không, thì cả 3 tướng nói trên đều không trả lời được. Ông dùng quyền bí thư đảng uỷ mặt trận, quyền tư lệnh chiến dịch kết thúc cuộc họp, dùng điện thoại ra lệnh trực tiếp cho các tư lệnh dưới quyền giữ vững quyết tâm diệt địch nhưng đình chỉ tiến công, kéo pháo ra, chấp hành triệt để, vì tình hình đã thay đổi, địch đã phòng thủ vững chắc, cần thay phương châm tác chiến sang «đánh chắc tiến chắc», ai còn thắc mắc sẽ giải thích sau. Việc thay đổi phương châm, rút pháo ra, chuẩn bị thêm gần 50 ngày đêm, để đêm 10-3 mở cuộc tiến công vào cứ điểm Him Lam, Độc Lập cho đến chiều 7 tháng 5-1954 toàn thắng, cũng qua hơn 50 ngày đêm chiến đấu, được tướng Giáp coi là «Quyết định khó khăn nhất» trong đời ông. Cần công bằng công nhận đây là biểu hiện tài chỉ huy mang dấu ấn riêng của ông. Như ông kể, Đại tá Nguyễn Hiếu ở Sở chỉ huy chiến dịch và Đại tá Cục phó Quân báo Cao Pha đã góp phần của mình, sớm tán đồng phương châm «đánh chắc tiến chắc» do ông đề ra. Về sau, nhiều sỹ quan công nhận rằng không thay phương châm, cứ liều húc vào một hệ thống phòng thủ vững chắc như tướng Pháp Navare và Cogny mong muốn thì 4 sư đoàn tiến công - vốn liếng quân sự của cuộc kháng chiến - sẽ bị tổn thất nặng nề ra sao, và diễn biến của cuộc chiến tranh chắc chắn sẽ khác hẳn. Các cố vấn quân sự Trung Quốc đều bất ngờ khi tướng Giáp báo tin thay đổi phương châm và sau khi nghe giải thích họ cũng tỏ ra tán thành.




Sau chiến thắng lớn như trên, các nhà bình luận quân sự phương Tây thường chỉ ra phía kháng chiến đã chịu những tổn thất khủng khiếp, gấp 3 hay 4 lần đối phương. Cái giá phải trả cho chiến thắng là quá lớn, lớn đến khủng khiếp, toàn là trai tráng thanh niên tuấn tú, có lý tưởng, chất lượng cao của dân tộc. Đây là sự thật. Hồi tháng 4-1996, trong cuộc hội thảo ở trụ sở Quốc Hội Hoa kỳ, tướng Westmoreland nói với tôi rằng: «Tôi công nhận tài năng của tướng Giáp, phải có tài mới ở lâu đến hơn 30 năm chiến tranh trên cương vị tư lệnh quân sự cao nhất; nhưng phải nói thật là nếu như tướng Giáp là một viên tướng Hoa kỳ thì ông đã bị mất chức từ lâu rồi, vì Quốc hội chúng tôi, xã hội chúng tôi không thể chấp nhận những tổn thất sinh mạng của quân đội mình cao đến vậy».


Tôi nghĩ nền độc lập của đất nước, quyền sống tự do của nhân dân là vô giá, dù cho phải trả giá cao, nhưng lãnh đạo đảng Cộng sản đã không quan tâm thật sự đến tự do của nhân dân, chỉ quan tâm trước hết đến quyền lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của đảng, do đó mà vô vàn hy sinh của các liệt sỹ cuối cùng đã trở nên phũ phàng, mỉa mai, không được đáp đền một cách xứng đáng. Đây là điểm tiêu cực nhất của tướng Giáp, là tỳ vết sâu đậm nhất của một danh tướng, từng được coi là Người Anh Cả của Quân đội Nhân dân. Ông mang danh là một viên tướng «Sát Quân», sát quân một cách lạnh lùng.


Tôi đã gửi 2 lá thư cho ông (năm 1992 và 1996), nhắc ông rằng quân hàm đại tướng 4 sao của ông được mạ bằng xương máu của hàng vạn vạn chiến binh, rằng «nhất tướng công thành vạn cốt khô», mong ông hãy tham gia, ủng hộ phong trào đổi mới theo hướng dân chủ hóa thật sự đất nước; rằng ông chỉ cần ghé thăm anh Hoàng Minh Chính đang bị chính quyền đối xử rất tồi tệ, hoặc nhắn anh Đại tá Phạm Quế Dương mới ra khỏi nhà giam đến hỏi chuyện, cả 2 đều là sỹ quan từng dưới quyền trực tiếp của ông, ông vẫn làm ngơ, không động lòng. Đây là điểm yếu về ý chí, công tâm, nhân cách.




Nhiều người nhắc đến lá thư tháng 1-2004 của tướng Giáp gửi lãnh đạo đảng CS yêu cầu giải quyết «vụ án siêu nghiêm trọng» liên quan đến Tổng cục II, làm rõ vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4, và sau này là 3 lá thư của ông hồi 2008-2009 về yêu cầu đình chỉ việc khai thác bauxite trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Đây là những việc làm có ý nghĩa tích cực, nhưng lá thư thứ nhất quá chậm trễ, vì các vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4 đều xảy ra từ hồi 1991 - 1993 cũng như vụ dựng lên Tổng cục II từ Cục 2 Quân báo đến lúc đó cũng đã được mười năm. Ông Giáp phải chờ đến năm 2004 - năm kỷ niệm nửa thế kỷ Chiến thắng Điện Biên Phủ - mới lên tiếng. Mà nội dung lên tiếng xem kỹ ra là nặng về thanh minh cho riêng cá nhân mình, như ông bị Năm Châu, Sáu Sứ dựng lên tài liệu để vu cáo là ông có âm mưu đảo chính, hay vụ T4 là do Tổng cục II bịa ra tài liệu vu cáo ông và nhiều nhân vật khác có quan hệ với CIA của Hoa kỳ. Nói tóm lại ông chỉ trước hết nhằm bảo vệ thanh danh của cá nhân mình, cố chăm nom cho cái bộ mã của người hùng Điện Biên không bị hoen ố, cho đến khi hơn trăm tuổi.


Thái độ của ông đối với vụ khai thác bauxite cũng có phần yếu ớt, buông xuôi, so với những lá thư mạnh mẽ, lặp đi lặp lại của các tướng Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh và một số sỹ quan cấp cao khác.




Dũng khí là đức tính hàng đầu của một danh tướng, nên vào năm 1984, khi ông Lê Duẩn đến nói chuyện rất hẹp với cán bộ lãnh đạo báo Nhân Dân, ông kể rằng hồi 1968, bộ trưởng quốc phòng «nhát như thỏ đế», tránh mặt ra nước ngoài. Sự thật kế hoạch quân sự Mậu Thân 1968 là do các ông Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đề xuất, khởi thảo và chỉ đạo thực hiện. Khi chiến sự bùng nổ Tết Mậu Thân, ông Giáp đang dưỡng bệnh 2 tháng ở Hungary sau khi mổ cắt túi mật ở đó. Thật ra ông không tán thành tham vọng tổng tiến công và nổi dậy, ông chỉ có ý thực hiện tập kích chiến lược, đánh rồi rút bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài. Ý ông đúng, nhưng không cản nổi.


Ở Bộ Quốc phòng và Tổng tham mưu, các sỹ quan đều biết rằng suốt trong 30 năm, tướng Giáp rất ít khi ra mặt trận. Ngay ở Điện Biên Phủ ông gần như chỉ ở trong hang đá Mường Phăng, ngoài tầm pháo địch, suốt hơn 4 tháng trời, không ra gần hay sát nơi chiến trận. Sau khi chiến dịch toàn thắng ông mới ra duyệt binh tại chiến trường đã im tiếng súng và tìm hiểu những di tích của các trận đánh. Trước đó, các chiến dịch lớn Trung Du, Hòa Bình, Thượng Lào … ông cũng ở trên Việt Bắc, chỉ huy từ rất xa.


Từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc chiến tranh ở miền Nam (1959 - 1975), ông không hề đặt chân lên chiến trường miền Nam (trừ 2 ngày tháp tùng ông Fidel Castro trên một đoạn ngắn thăm đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Cam Lộ - Quảng Trị, khi sắp kết thúc chíến tranh.). Trong khi đó các tướng Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần Độ, Hoàng Cầm, Lê Ngọc Hiền, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê … đều ở chiến trường miền Nam vài năm. Do đó trong cuộc chiến tranh ở miền Nam, rút ra được những kinh nghiệm nóng hổi, thiết thực và bổ ích nhất, tướng Giáp đóng góp không có gì đáng kể, so với một loạt bài tổng kết lớn của tướng Nguyễn Chí Thanh (ký tên Trường Sơn), một số bài báo của tướng Trần Độ (ký tên Cửu Long) cũng như một số tài liệu tổng kết cho Học viện quân sự cấp cao của các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Hoàng Minh Thảo và Nguyễn Hữu An …mà cán bộ học viện thường gọi là «Binh thư mới» của Quân đội Nhân dân.




Một nhược điểm của tướng Giáp là văn phong, khẩu khí của ông, nếu không thể nói là yếu kém thì có thể nói là không có gì nổi bật. Ông mất đi, để lại hàng chục đầu sách, hàng trăm luận văn, bản báo cáo, hàng chục hồi ký (phần lớn do nhà văn quân đội Hữu Mai ghi lại), rất nhiều bài trả lời phỏng vấn trong nước và nước ngoài. Có cuốn sách nào hay, những ý tưởng quân sự nào đặc sắc của cá nhân ông, để lại cho hậu thế hay không? Điều này rất khó nói. Tôi từng dự nhiều buổi nói chuyện của ông tại Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, tại Học viện Quân sự cấp cao, ở trường Sỹ quan Lục quân, ở nhiều Quân khu, có thể nói ông không có năng khiếu truyền đạt, thông tin một cách bổ ích, hấp dẫn, rất thiếu những hình ảnh, dẫn chứng đặc sắc thú vị. Ông không có tài hùng biện, lôi cuốn của tướng Nguyễn Chí Thanh, không có tài kể chuyện thú vị của tướng Trần Độ, không có sự sống động dày dạn của lão tướng Lê Trọng Tấn, không có sự táo tợn bộc trực của tướng Phùng Thế Tài, cũng không có cái giọng bình dân lính tráng bỗ bã của tướng Đinh Đức Thiện.


Vốn là giáo sư sử học trường tư thục Thăng Long, tướng Giáp say mê nghiên cứu lịch sử, hiểu rõ thiên tài quân sự của Napoléon. Ông thông minh, đôi mắt sáng, có trí nhớ tốt. Nhưng cách trình bày, khoa sư phạm của ông thường lại sáo mòn, đầy những quy luật, nguyên tắc nhạt nhẽo, khô cứng, lặp đi lặp lại đến phát chán cho người nghe. Bao giờ cũng là do sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, có đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng đắn; có Quân đội Nhân dân, quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được nhân dân bao bọc, che chở, nuôi dưỡng, gồm 3 thứ quân: chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, phối hợp chặt chẽ 3 vùng: rừng núi, trung du và đồng bằng; vùng tự do, vùng tranh chấp và vùng tạm chiếm; luôn giữ quyền chủ động cả về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và chiến đấu, kết hợp chặt chẽ tiền tuyến với hậu phương…, quanh quẩn chỉ có thế.




Tướng Peter Mac Donald của Quân đội Hoàng gia Anh, từng sang Việt Nam gặp tướng Giáp hồi 1987 đã viết cuốn «GIAP - hai cuộc chiến tranh Đông Dương» (GIAP - les deux guerres d’ Indochine) do nhà xuất bản Perrin - Paris phát hành năm 1992, trong đó ông nhận xét: «Những tư tưởng của tướng Giáp được ghi lại trên giấy thường là chán ngán đến chết người » (ses pensées transcrites sur le papier sont souvent mortellement ennuyeuses). Đây là nhận xét gần với sự thật.


Kết luận cuốn sách 350 trang, tướng P. Mac Donald viết: «Từ khi còn trẻ, tướng Giáp đã thấm nhuần lý thuyết Cộng sản. Thật đáng tiếc là trải qua mấy chục năm dài, lẽ ra trí thông minh của ông đã có thể mách bảo ông rằng cái chế độ mà ông tham gia xây dựng là sai lầm tệ hại, để từ đó tìm ra con đường khác bảo đảm hạnh phúc cho đồng bào của ông. Như một người theo Công giáo thời Trung cổ sợ hãi bị trừng phạt khủng khiếp khi bỏ đạo, ông đã mù quáng phục vụ đường lối Marx – Lénine theo như Hồ Chí Minh dẫn giải».


Trên đây là nhận xét khách quan của một nhà quân sự già dặn từng ở trong quân đội Anh 32 năm, từng sống qua 26 nước, từng nghiên cúu kỹ trận Điện Biên Phủ, từng là chủ biên cuốn Lịch sử thế giới (1987).


Bi kịch lớn nhất của tướng Giáp khá nhiều người nhận thấy đúng là: một danh tướng, có kiến thức, thông minh nhưng lại không đủ thông minh và dũng khí để sớm nhận ra và từ bỏ một lý thuyết sai lầm tệ hại, chỉ đem lại tàn phá và tổn thất cho nhân dân, đến nay vẫn chưa có tự do và hạnh phúc khi ông nhắm mắt.



Chỉ huy nhưng không lãnh đạo











Ngô Nhân Dụng - Chỉ huy nhưng không lãnh đạo





Ngô Nhân Dụng





Nghe tin ông Võ Nguyên Giáp qua đời, chỉ mấy giờ sau tôi được nghe những lời nhận xét đầu tiên về ông là bài phỏng vấn Giáo sư Nguyễn Minh Cần, trên đài RFI. Cụ Nguyễn Minh Cần tỏ ý kính trọng tư cách cá nhân và phương pháp làm việc của ông Võ Nguyên Giáp trong thời gian làm việc với ông trong chiến dịch “Sửa Sai” cuộc cải cách ruộng đất. Ðại tướng Võ Nguyên Giáp được đảng Cộng sản đưa ra chỉ huy vụ sửa sai, còn Giáo sư Nguyễn Minh Cần phụ trách bộ phận sửa sai của thành phố Hà Nội, cho nên hàng ngày hai người làm việc chung.








Ðại tướng Võ Nguyên Giáp



Tôi tin tưởng ở tinh thần trung thực và trí phán đoán của cụ Nguyễn Minh Cần. Cụ đã từng đi kháng chiến, vào đảng Cộng sản, sau năm 1954 từng đứng trong số lãnh đạo thủ đô Hà Nội. Cụ được cho đi Nga học, từ chối không nghe lệnh Lê Duẩn bắt về nước; rồi sau đó đã dứt khoát từ bỏ đảng từ gần nửa thế kỷ nay. Nếu về nước cuối thập niên 1950 chắc cụ cũng bị bắt bỏ tù, như những Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang, vân vân, về tội “xét lại chống đảng.”




Cụ từ chối lệnh triệu hồi, ở lại Nga, cũng như một số đồng chí khác cùng phản đối chủ trương tiếp tục tôn thờ Stalin của đảng. Có người đã tự tử vì thấy cuộc cách mạng đã bị phản bội, còn mình thì bất lực, cuộc đời mất hết ý nghĩa. Một lần, cùng đi trên đại lộ Arbat ở Moscow, cụ Cần chỉ lên tầng lầu một ngôi nhà cao, ngậm ngùi kể tôi nghe: “Anh Văn Doãn đã nhẩy từ trên lầu này xuống đường, anh chết ngay.” Nguyễn Minh Cần đã quyết định sống và tiếp tục cuộc tranh đấu. Mấy chục năm gần đây, cụ là một tiếng nói có uy tín và hùng hồn nhất, cùng chúng ta kêu gọi xóa bỏ chế độ cộng sản độc tài, xây dựng nước Việt Nam tự do dân chủ.



Vì vậy, nghe cụ Nguyễn Minh Cần ngỏ những lời kính trọng con người của ông Võ Nguyên Giáp, tôi tin ông Giáp là một người có tư cách cá nhân đáng trọng. Theo cụ, ông Giáp làm việc tận tâm, chú ý đến con người, những người cộng sự cũng như các nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất. Cụ Nguyễn Minh Cần công nhận việc sửa sai không đi tới đâu hết, Võ Nguyên Giáp cũng chịu thua, “vì có những cái sai không thể nào sửa được.” Như những xác chết, những gia đình tan nát. Và cả những ngôi nhà bị tích thu đem chia, phát cho các cán bộ bần cố nông ở; khi phải rút đi họ đã tháo lấy hết đồ đạc, gỡ cả căn nhà, từ những hòn ngói trên mái đến những bậc lên cửa bằng gỗ.








Lịch sử Việt Nam sẽ ghi tên ông Võ Nguyên Giáp như vị tướng chỉ huy quân đội trong thời dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp. Như vậy cũng đủ cho ông hãnh diện khi nhắm mắt. Nhưng khi nhìn lại sự nghiệp của ông, một điều không thể quên được là ông đã đóng vai chỉ huy nhưng không phải là người lãnh đạo. Võ Nguyên Giáp đã làm đúng bổn phận với đảng Cộng sản, nhưng không giúp gì được cho việc thay đổi đường lối lãnh đạo của những Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Lê Duẩn.



Bởi vì trong các đảng cộng sản, tổng bí lãnh đạo, với ý kiến của Bộ Chính Trị. Coi các tài liệu của đảng vào thời chiến, bao giờ người ta cũng thấy các tấm hình được đưa lên cao là Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị đang tham khảo các bản đồ trước các cuộc hành quân, Võ Nguyên Giáp chỉ là một người đứng bên cạnh. Ðảng Cộng sản không chấp nhận các “anh hùng,” nhất là anh hùng trong quân đội. Ở Nga, Stalin được ghi công đầu trong cuộc chiến “vệ quốc” thời Thế Chiến Thứ Hai. Các ông thống chế Nga đều được cho nghỉ hưu sau chiến tranh; nhiều người còn bị bức tử. Ðược phong làm đại tướng ngay từ khi kháng chiến bắt đầu, ông Giáp dừng tại đó, giữ nguyên một cấp bậc, không lên được nữa. Có lẽ bên Nga Stalin đã đeo quân hàm thống chế rồi cho nên mới phong cho các thống chế khác. Còn ở Việt Nam thì cả Hồ Chí Minh lẫn Trường Chinh không ai mặc quân phục, cho nên họ chỉ phong đến cấp đại tướng, và có nhiều đại tướng để không ai nổi bật lên.



Trong những hồi ký của các cố vấn Trung Cộng, viết sau khi ở Việt Nam về, họ cố ý đề cao vai trò của họ, và của Mao Trạch Ðông, và không ngại đưa ra những lời chỉ trích Võ Nguyên Giáp rất nặng nề. Họ kể công đã đưa ra các quyết định đúng nhất, nhiều khi ngược lại với ý kiến của Võ Nguyên Giáp, kể cả trong những vấn đề chiến thuật. Ngay trong chiến dịch biên giới năm 1950, hai cố vấn Trần Canh và Vi Quốc Thanh nói họ đã chọn mục tiêu tấn công chính, đã trình lên và được Mao Trạch Ðông chấp thuận, rồi mới đưa cho Hồ Chí Minh coi. Sau một đợt tấn công đầu tiên, Vi Quốc Thanh kể rằng Võ Nguyên Giáp đề nghị tạm ngưng để bồi dưỡng quân sĩ; và bị các cố vấn kịch liệt phản đối. Họ chê quân Việt Nam, từ cấp chỉ huy đến binh sĩ, đều “sợ khổ, sợ khó, sợ chết” cho nên mới đánh xong một trận đã muốn nghỉ ngơi. Họ nêu ra tấm gương quyết chiến của Hồng quân Trung Hoa để khuyên bảo, nhưng vẫn không thành công. Sau cùng họ phải xin ý kiến Mao Trạch Ðông, chính họ Mao quyết định, và Hồ Chí Minh đã đồng ý phải đánh tiếp. Trận đánh thành công, các cố vấn coi đó là nhờ chiến thuật “đánh không nghỉ” của họ.









Chúng ta khó tin hết những lời của các cố vấn Trung Cộng; cũng như không thể tin báo cáo của các quan thái thú, thứ sử các đời Hán, đời Ðường nói về tình trạng “man di” và “khó trị” của dân Giao Châu. Nhưng dù lời kể của Vi Quốc Thanh đúng một phần, chúng ta cũng thấy một điều là: Những người Việt chỉ huy quân Việt thì chắc thương binh sĩ cực khổ nhiều hơn các cố vấn người Tàu, cho nên họ mới muốn cho quân được nghỉ dưỡng sức sau mấy ngày chiến đấu không được ăn một bữa cơm. Nếu ý kiến của họ được thi hành thì chắc kết cục của trận đánh cũng không thay đổi; mà chắc số tử sĩ người Việt sẽ thấp hơn.




Căn cứ vào nhận xét của Giáo sư Nguyễn Minh Cần thì chúng ta có thể đoán ông Võ Nguyên Giáp đối xử với thuộc cấp trong quân đội cũng giống như trong chiến dịch sửa sai. Chắc ông giữ được tính thân thiện, gần gũi, chú ý đến con người chứ không phải chỉ chú ý đến công việc, và làm gương về đức tận tụy trong khi làm bổn phận. Ông Giáp không học trường quân sự nào, nhưng chắc ông cũng như những người Việt Nam cùng thế hệ, đã học “đạo làm tướng” của Tôn Võ, Ngô Khởi, Nhạc Phi, khi đọc các tiểu thuyết lịch sử bên Tàu. Một bí quyết của người làm tướng là phải gần gũi, thân thiết với binh sĩ. Ngô Khởi đã từng tự mình chữa trị thương tích cho lính, có lúc dùng miệng hút mủ từ vết thương của lính. Ðức tính đó không phải ai cũng tập được, nhưng chắc ông Võ Nguyên Giáp đã thể hiện trong công việc chỉ huy của ông. Tôi đã gặp một vị cựu đại tá từng là bí thư dưới quyền ông Giáp. Mặc dù đã gặp nhiều gian truân, tù tội, mà ông Giáp không cứu được, vị đại tá này cho đến trước khi qua đời nói đến ông vẫn tỏ lòng kính trọng.



Nhưng ngoài việc chỉ huy ra, ông Võ Nguyên Giáp không được coi là người lãnh đạo cuộc chiến tranh, vì các quyết định quan trọng nhất thuộc về Bộ Chính Trị, và các cố vấn Trung Cộng. Trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ cũng vậy. Lúc đầu, từ năm 1953 đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đánh xuống miền Trung Du để uy hiếp Hà Nội. Nhưng chính Mao Trạch Ðông đã quyết định phải mở cuộc chiến rộng khắp ba nước Ðông Dương, khuấy động cả Cambodia và Lào; để phục vụ cuộc cách mạng vô sản Ðông Dương và toàn thế giới, chứ không riêng một nước Việt Nam. Sau cùng, ý kiến của Mao đã được truyền xuống tới Hồ Chí Minh, và trở thành chiến lược chính thức. Vì vậy mới có trận Ðiện Biên Phủ. Các cố vấn Trung Cộng cũng tô hồng cho các quyết định sáng suốt của Mao Trạch Ðông trong trận đánh lịch sử đó; mà theo họ từ Hồ Chí Minh đến Võ Nguyên Giáp chỉ đóng vai thi hành; mặc dù họ được khen ngợi là đã chấp hành rất giỏi. Các nhà nghiên cứu lịch sử sau này sẽ tìm hiểu rõ sự thật về các vấn đề đó.








Như Giáo sư Nguyễn Minh Cần phát biểu, trong lúc ông Võ Nguyên Giáp mới nhắm mắt, chúng ta hãy khoan không cần nói đến những nhược điểm của ông và vai trò yếu ớt của ông trong mấy chục năm cuối đời. Ông không đóng một vai trò quyết định nào trong chính sách của đảng Cộng sản. Có giả thuyết nói rằng Võ Nguyên Giáp chủ trương không đánh miền Nam, và bị thua phe Lê Duẩn chủ chiến. Nhưng sau khi đảng Cộng sản đã quyết định đánh, ông lại tuân thủ và tích cực thực hiện. Trong mười năm gần đây, nhiều người trong nước trông mong ông đứng ra phản đối các chính sách, đường lối của nhóm cộng sản cầm quyền tham nhũng, thối nát và bất lực trong việc đưa đất nước tiến lên, nhưng ông hoàn toàn im lặng. Chỉ có một lần ông lên tiếng phê bình việc khai thác bô xít, nêu cả lời khuyên của các cố vấn Nga ngày xưa khuyên không nên làm vì hại cho môi trường. Nhưng sau cùng, đảng Cộng sản bỏ ngoài tai. Ông cũng không dám phản đối đến cùng, vì không thể nào thay đổi chính sách của đảng Cộng sản. Bây giờ, đảng Cộng sản Việt Nam kính trọng quyền lợi và ý kiến của các cố vấn Trung Cộng hơn.




Ông Võ Nguyên Giáp là một “đảng viên cộng sản tốt.” Nghĩa là lúc nào cũng tôn trọng các chính sách do đảng quyết định. Ðảng bảo làm gì thì ông làm, không bảo thì ông không cần làm gì cả. Trong đảng, thời chiến cũng như thời bình, ông lúc nào cũng tuân thủ lệnh đảng. Cá nhân của ông không quan trọng. Ông theo đảng Cộng sản và suốt đời gánh chịu các hậu quả của lựa chọn đó. Cho nên việc đánh giá cá nhân ông không quan trọng. Ông đã được đưa ra chỉ huy quân đội, nhưng ông phải là người lãnh đạo. Quân đội đó được đảng Cộng sản sử dụng thế nào, dùng vào việc gì, chuyện đó nằm ngoài lãnh vực ông phụ trách. Gần đây, báo chí của đảng Cộng sản nêu ra khẩu hiệu “Quân đội trung thành với Ðảng,” chứ không phải với Quốc gia. Không thấy ông Giáp bày tỏ ý kiến. Lúc nào ông cũng là một đảng viên trung thành với đảng.








Một độc giả báo Người Việt mới góp ý kiến sau khi nghe tin ông Võ Nguyên Giáp qua đời. Bạn đọc này viết: “Tôi thấy dường như cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay ông Võ Nguyên Giáp không một lần tỏ ra ân hận về những việc của ông làm trong thời gian tại chức. Bằng chứng là khi trả lời phỏng vấn của một phóng viên ngoại quốc hỏi, “Général Giap, regrettez-vous de quatre millions de Vietnamiens... morts dans la guerre du Vietnam? “Thưa Ðại Tướng Giáp, ông có hối tiếc gì về việc bốn triệu người Việt đã chết trong chiến tranh Việt Nam không?) Và Tướng Giáp đã không đắn đo trả lời ngay, “Non, je ne regrette rien. NON, PAS DU TOUT!” (Không, tôi không hề hối tiếc. Không một mảy may nào).



Một đảng viên cộng sản gương mẫu bao giờ cũng chỉ tận tụy thi hành công tác do đảng giao phó, không cần suy nghĩ. Ý kiến cá nhân không đáng kể. Ông Giáp nói ông không hối tiếc về bốn triệu mạng người Việt đã chết. Không biết trong đáy lòng ông có cảm thấy thương xót hay không?














Friday, October 4, 2013

BÈ LŨ BÁN NƯỚC...

 

 

 

Những sự thật cần phải biết (phần 24) - Tội bán nước và tham nhũng có tên Lê Khả Phiêu




















Đặng Chí Hùng (Danlambao) Lê Khả Phiêu là một cán bộ cộng sản gộc có nhiều tội lỗi với nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên nổi bật là hai trọng tội: Bán nước và tham nhũng. Trước đi vào tìm hiểu hai sự việc đó chúng ta điểm qua thân thế của Lê Khả Phiêu trên báo đảng:



I. Về thân thế Lê Khả Phiêu:

“Đồng chí Lê Khả Phiêu sinh ngày 27/12/1931 tại xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ngày 19/6/1949, đồng chí gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Là một cán bộ trưởng thành từ cơ sở và tham gia quân đội, đồng chí Lê Khả Phiêu trực tiếp tham gia các cuộc kháng chiến và chỉ huy chiến đấu trên các chiến trường Bắc - Trung - Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. 

Từ năm 1964 đến năm 1992, đồng chí Lê Khả Phiêu lần lượt giữ các chức vụ trong quân đội: Chính ủy kiêm Trung đoàn trưởng; Phó Chủ nhiệm Chính trị quân khu Trị Thiên; Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn II; Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị quân khu IX; Phó Bí thư khu ủy Khu IX; Thiếu tướng Chủ nhiệm Chính trị Phó Tư lệnh Chính trị mặt trận 719; Trung tướng Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Thượng tướng Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. 

Tháng 6-1991 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đồng chí được bầu là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 

Tháng 6-1992 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 13 của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Thường trực Bộ Chính trị. 

Ngày 26/12/1997 tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa X.”.

Đây là tiểu sử được trích nguyên văn từ website của đảng cộng sản VN (1).

Tháng 6-1991, Lê Khả Phiêu mới được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, năm 1992, vì giữ chức chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phiêu được cơ cấu vào Ban Bí thư và tháng 1-1994, tại đại hội Đảng giữa nhiệm kỳ, Phiêu được đưa vào Bộ Chính trị. Vậy mà tháng 12-1997, tức là chỉ trong vòng 6 năm sau khi vào BCHTW, Lê Khả Phiêu đã trở thành tổng bí thư, một hành trình tiến thân khá nhanh cho thấy Phiêu chính là một kẻ cơ hội và biết luồn cúi để mau nắm quyền trong trận đồ của cộng sản.

1. Một kẻ sợ hãi Internet:

Lê Khả Phiêu là một kẻ sợ hãi Internet vì thông qua nó thì những bí mật cộng sản sẽ bị lộ tẩy và Chu Hảo là một trong những người ủng hộ sự kiểm duyệt Internet của cộng sản (Vậy mà giờ đây ông Chu Hảo đang kêu gọi đấu tranh cho “Dân chủ” thì thật là bất ngờ). Theo Chu Hảo: “Đến ngày hẹn, ông Đỗ Mười đang ở miền Nam, đề nghị chúng tôi báo cáo trực tiếp ông Lê Khả Phiêu, thời gian ấy là ủy viên Thường vụ Thường trực Bộ Chính trị”.

Gặp Lê Khả Phiêu, Mai Liêm Trực trình bày về pháp lý, Chu Hảo nói về kỹ thuật, Nguyễn Khánh Toàn báo cáo về đảm bảo an ninh. Đây là giai đoạn mà Lê Khả Phiêu sắp trở thành tổng bí thư. Giáo sư Chu Hảo nói: “Chúng tôi chia sẻ những lo sợ của ông Phiêu cũng như của các vị trong Ban Bí thư về an ninh, về bí mật quốc gia, sợ văn hóa đồi trụy và phản động tràn vào Việt Nam. Chúng tôi nói về những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong ngành bảo mật thông tin nhưng không dám khẳng định là kiểm soát được tất cả. Chúng tôi cho rằng tường lửa cũng như cái khóa, khóa tốt thế nào cũng có người mở được, nên vấn đề quan trọng vẫn là con người. Ông Phiêu rất thích lập luận ‘vấn đề quan trọng là con người’, ông đồng ý”.

Tháng 12-1996, Trung ương Đảng khóa VIII họp Hội nghị lần thứ hai bàn về khoa học công nghệ. Đỗ Trung Tá đã nói: “Tôi mở một phòng máy và dùng sơ đồ đơn giản nhất để ‘giới thiệu Internet và các biện pháp đề phòng’. Các ủy viên dự họp Trung ương được Tổng Bí thư Đỗ Mười cho phép tới tìm hiểu về Internet và tường lửa. Bằng vài thuê bao Internet nối với server của VDC, tôi cho tải các websites có nội dung tốt xuống cho các ủy viên Trung ương xem; rồi cho tải những web-sex, các ủy viên Trung ương giữ ý quay mặt đi, tôi cho anh em biểu diễn kỹ thuật ngăn các web-sex này lại. Các ủy viên Trung ương nói: Nếu làm được như thế thì cho mở được. Hội nghị Trung ương 2 thừa nhận Internet tải được trí tuệ của nhân loại về và tin rằng có thể ngăn các nội dung xấu”.

2. Dân chủ chỉ là trò hề:

Lê Khả Phiêu được đưa lên giữ chức tổng bí thư trong một hội nghị Trung ương, thay vì được bầu trong đại hội (12-1997) (Điều lệ Đảng quy định tổng bí thư chỉ do Ban chấp hành Trung ương bầu. Tuy nhiên, những người được đưa lên từ các đại hội thường có tính chính danh cao vì trước khi đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương, những người được cơ cấu vào các chức danh chủ chốt như tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội đều được Ban chấp hành khóa bắt đầu mãn nhiệm chuẩn bị và trình ra đại hội). Ngày 18-1-1998, khi đến thăm Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tuyên bố: “Dân chủ 100% là hình thức”.

Quyền lực thực sự của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu bắt đầu được thể hiện sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần hai, họp từ 25-1 đến 2-2-1999 tại Hà Nội ra nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng”. Tuy trong Nghị quyết này, Lê Khả Phiêu đặt ra tham vọng “nghiên cứu lý luận trong nước và thế giới, làm rõ hơn mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” nhưng trên thực tế chỉ có “cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng”“luân chuyển, điều động cán bộ” mới thực sự giúp Phiêu tạo ra những bước đi quyền lực.

Ngay sau khi nhậm chức, Lê Khả Phiêu đã đưa Bộ trưởng Lao động và Thương binh Xã hội Trần Đình Hoan về làm chánh Văn phòng Trung ương. Quyết định này được coi là nhằm tạo chỗ trống để có thể đưa một ủy viên Trung ương cùng quê Thanh Hóa, Nguyễn Thị Hằng, lên bộ trưởng Lao động và Thương binh Xã hội. Cuối năm 1999, một ủy viên Trung ương người Thanh Hóa khác, Tô Huy Rứa phó giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia được luân chuyển về làm bí thư Thành ủy Hải Phòng. Tháng 2-2000, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển bị “luân chuyển” về làm bí thư Tỉnh ủy Nghệ An.

Trong tiệc tiễn do Văn phòng Chính phủ tổ chức, Trương Đình Tuyển đã đọc một bài thơ của ông nói rằng, việc ra đi của ông đơn giản vì (Tổng Bí thư) cần “chỗ trống”. Chỗ trống để đưa Thứ trưởng kỳ cựu Vũ Khoan rời Bộ Ngoại giao, tạo “chỗ trống” cho Nguyễn Dy Niên, cùng quê Thanh Hóa với Tổng Bí thư, lên bộ trưởng.

3. Tài năng kém cỏi:

Về đối nội, Lê Khả Phiêu bị cáo buộc làm trái nguyên tắc khi ký Quyết định 234, cho lập ra một cơ quan theo dõi nội bộ, chủ yếu là cán bộ cao cấp. Theo Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng: “Việc xem xét những sai lầm của Quyết định 234 bắt đầu sau khi ông Lê Đức Anh chính thức đặt ra”. Một ban chuyên án được Bộ Chính trị cho thành lập với thành phần gồm: Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Chủ nghiệm Ủy ban Kiểm tra Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Trưởng Ban Bảo vệ Đảng Nguyễn Đình Hương (Chuyên án A10).

Vũ Quốc Hùng, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, người được giao thẩm tra các sai phạm của Lê Khả Phiêu, cho biết: “Đầu năm 2001, Bộ Chính trị họp chuẩn bị Đại hội IX, chị Nguyễn Thị Xuân Mỹ đi họp về nói, Bộ Chính trị đang kiểm điểm anh Phiêu gay gắt nhiều chuyện: vấn đề Campuchia, quan hệ nam nữ, vô nguyên tắc khi ra Quyết định 234, ngành tình báo lâu nay chỉ nắm địch, nay được theo dõi nội bộ, gặp Giang Trạch Dân, đi không hỏi, về không trình. Từ đó, Ủy ban Kiểm tra phải vào cuộc, họp cả ngày cả đêm. Trong khi Bộ Chính trị vẫn cứ họp. Ông Phạm Thế Duyệt, ủy viên thường trực Thường vụ Bộ Chính trị, thường xuyên gọi tôi sang, dặn: phải có trách nhiệm với Đảng, phải khách quan, không chịu áp lực của mấy ông cố vấn”.

Theo Vũ Quốc Hùng: “Quyết định 234 được ký theo tham mưu của ông Vũ Chính. Lẽ ra anh Phiêu phải thận trọng. Khi Vũ Chính tham mưu thì nói là làm sao để ngăn chặn diễn biến hòa bình, ngăn chặn những xu hướng không tốt trong nội bộ Đảng. Tham mưu bằng mồm và có tham mưu cả bằng giấy. Ông Phiêu thấy cần phải có một văn bản, một tổ chức nên ký”.

Và chính Vũ Quốc Hùng đã có báo cáo tố cáo những sai phạm của Lê Khả Phiêu như sau:”

“BẢN BÁO CÁO TỐI MẬT CỦA ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG VỀ LÊ ĐỨC ANH
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
ỦY BAN KIỂM TRA

*

Số: 751-/BCKTTW

TỐI MẬT 

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2001

BÁO CÁO

Về việc giải quyết thư phản ánh đối với đồng chí Lê Đức Anh, Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Vừa qua, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã nhận được nhiều đơn thư của cán bộ, đảng viên phản ánh có liên quan đến đồng chí cố vấn Lê Đức Anh, với nội dung tóm tắt như sau:

1 - Thường xuyên dự sinh hoạt với Bộ Chính trị và dự kiểm điểm của Bộ Chính trị theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) vì sao đồng chí không đưa vấn đề Quyết định 234 và thành lập bộ phận A10 ra phê bình, góp ý kiến với đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, mà để đến nay, vào thời điểm sát Đại hội IX mới đưa ra, phải chăng là sự vận động chia rẽ bè phái trong Đảng.

2 - Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 11 đã cho Trợ lý đi thông báo ý kiến riêng của mình, phát biểu trước Hội nghị Trung ương phê phán đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục chính trị.

- Đồng chí đã gửi văn bản cho Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo và Cục trưởng Cục An ninh quân đội về ý kiến của Bộ Chính trị đối với quyết định 234 và chỉ thị phải thực hiện một số việc theo ý kiến riêng của mình.

- Trong dịp tết Nguyên đán Tân Tỵ (2001), khi vào miền Nam tiếp xúc các tướng lĩnh quân đội, đồng chí đã nói về Hội nghị của Bộ Chính trị và Hội nghị Trung ương lần 11 kiểm điểm đồng chí Lê Khả Phiêu, đồng chí Phạm Thanh Ngân vi phạm nguyên tắc Đảng; đồng chí Lê Khả Phiêu không xứng đáng làm Tổng Bí thư.

3 - Đã thiếu tôn trọng vai trò, vị trí của Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương; thiếu tôn trọng tập thể, thiếu bình đẳng, thường áp đặt ý kiến riêng không khách quan, không công bằng; thậm chí sử dụng lực lượng tình báo theo ý kiến cá nhân.

4 - Báo cáo thiếu trung thực một số vấn đề về lịch sử bản thân như: thành phần bản thân, ngày vào Đảng, về gia đình vợ cũ, về thực hiện một số nhiệm vụ được giao trước đây.

Chấp hành ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị trong phiên họp ngày 05-3-2001 (Công văn số 583-CV/TW, ngày 09-3-2001) Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã nghiên cứu, xem xét các nội dung phản ánh nói trên. Xin báo cáo Bộ Chính trị như sau:

1 - Về việc thư phản ánh nêu đồng chí Lê Đức Anh biết quyết định 234 sớm, nhưng để đến sát Đại hội IX mới phê phán đồng chí Lê Khả Phiêu: Theo báo cáo của đồng chí Vũ Chính, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục tình báo, khoảng tháng 6 năm 2000 đồng chí có báo cáo với đồng chí Cố vấn Lê Đức Anh về quyết định 234 và Kế hoạch A10 do đồng chí Lê Khả Phiêu ký là sai. Đến Hội nghị Bộ Chính trị bàn chuẩn bị nhân sự Đại hội IX (5-1-2001) việc này mới đưa ra Bộ Chính trị xem xét. Ủy ban Kiểm tra Trung ương chưa có điều kiện để xem xét, kết luận về ý kiến phản ánh.

2 - Về việc sau Hội nghị Trung ương 11 đồng chí Lê Đức Anh cử trợ lý đi thông báo ý kiến riêng của đồng chí: Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 11, đồng chí Lê Đức Anh đã cử đồng chí trợ lý Nguyễn Bắc Son đi gặp trực tiếp một số đồng chí lão thành cách mạng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Ủy viên Trung ương và tướng lĩnh quân đội. Đồng chí Nguyễn Bắc Son đã đến gặp 19 đồng chí: Chu Huy Mân, Nguyễn Quyết, Tố Hữu, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Thanh Bình, Đồng Sĩ Nguyên, Hoàng Minh Thảo, Phùng Thế Tài, Trần Văn Quang, Đặng Quân Thụy, Hoàng Anh, Nguyễn Chơn, Trần Lê, Nguyễn Hữu Khiếu, Nguyễn Quốc Thước, Nguyễn Trọng Xuyên, Lê Hai, Phạm Văn Long, Nguyễn Thị Bình. Nội dung cuộc gặp là truyền đạt ý kiến của Cố vấn Lê Đức Anh thông báo một số vấn đề có liên quan đến Bộ Chính trị bàn về nhân sự Đại hội IX; đọc nguyên văn quyết định số 234, Kế hoạch A10 và bài phát biểu của đồng chí Lê Đức Anh tại Hội nghị Trung ương 11. Việc làm trên là vi phạm nguyên tắc.

- Tại Hội nghị ngày 5 - 1 - 2001, Bộ Chính trị thảo luận phân tích việc đồng chí Lê Khả Phiêu ký quyết định số 234 là vi phạm nguyên tắc lãnh đạo tập thể và đã chỉ thị phải hủy bỏ ngay Quyết định 234 và giải tán ngay bộ phận A10; nhưng không kết luận việc lập bộ phận A10 với động cơ mục đích theo dõi nội bộ cán bộ cấp cao và cũng chưa có cơ sở để kết luận bộ phận A10 đã tổ chức theo dõi nội bộ cấp cao. Nhưng ngày 9 - 1 - 2001, đồng chí Lê Đức Anh đã có văn bản gửi Tổng cục Tình báo và Cục An ninh quân đội, yêu cầu: “phải chấm dứt ngay mọi hoạt động như việc điều tra Ủy viên Bộ Chính trị; việc lấy danh nghĩa và uy tín quân đội để vận động cho người này, nói xấu người kia, nói xấu các đồng chí Cố vấn, phát biểu mập mờ để gây nghi ngờ một số đồng chí Bộ Chính trị”.

Việc đồng chí Lê Đức Anh ra văn bản ngày 9-1-2001 chỉ thị cho Tổng cục Tình báo và Cục An ninh quân đội phải chấm dứt ngay mọi hoạt động điều tra Bộ Chính trị … là không đúng về nội dung kết luận của Bộ Chính trị trong phiên họp ngày 5-1-2001 và vượt quá thẩm quyền đồng chí Cố vấn.

3 - Về ý kiến phản ánh đồng chí thiếu tôn trọng Trung ương, không khách quan, không công bằng... Đối với nội dung này Ủy ban Kiểm tra Trung ương chưa có điều kiện xem xét đầy đủ. Nhưng có một số việc như: Việc máy bay Lý Tống rải truyền đơn phản động ở thành phố Hồ Chí Minh và Tây Ninh, ngày 17-11-2000 và bắn nhầm máy bay dân dụng, ngày 18-11-2000, có liên quan trách nhiệm và khuyết điểm của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm Văn Trà và một số đồng chí khác; Bộ Chính trị đang chỉ đạo kiểm điểm xử lý những tập thể và cá nhân liên quan. Nhưng tại Hội nghị Đảng ủy Quân sự Trung ương, ngày 12-11-2001, đồng chí Lê Đức Anh phát biểu là trong tình hình hiện nay mà đặt vấn đề kỷ luật các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng sẽ gây hoang mang trong quân đội, là thiếu trách nhiệm với Tổ quốc. Ngược lại, đối với đồng chí Lê Khả Phiêu là Tổng Bí thư của Đảng, Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, thì đồng chí đã quy kết nặng nề và đặt vấn đề phải thông báo cho các cấp ủy trong toàn Đảng và các cấp lãnh đạo, chỉ huy trong toàn quân. Đồng chí còn biết rõ vụ Xiêm Riệp, xảy ra từ năm 1983 và đã được xử lý xong. Đồng chí Lê Khả Phiêu không ở trong số các đồng chí có trách nhiệm phải xem xét, nhưng đến nay, đồng chí lại đưa vấn đề này ra Bộ Chính trị để xem xét.

Qua các sự việc đã xem xét cho thấy, khuyết điểm của đồng chí Lê Đức Anh đã gây phân tâm và mất lòng tin của cán bộ đảng viên và nhân dân đối với Đảng, tạo sơ hở để các phần tử thù địch và cơ hội lợi dụng gây chia rẽ, bè phái trong Đảng.

Còn nội dung thứ 4 và một số vấn đề khác chưa đủ thời gian và điều kiện xem xét, kết luận. Vậy, Ủy ban Kiểm tra Trung ương xin báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định./.

Nơi nhận:

- Thường vụ Bộ Chính trị

(để báo cáo)

- Lưu hồ sơ 

T/M ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG

PHÓ CHỦ NHIỆM

Đã ký

Vũ Quốc Hùng”.
Lê Khả Phiêu khi về thăm Ninh Bình


II. Tội bán nước:

Lê Khả Phiêu là một trong những tên trùm sò bán nước của cộng sản Việt Nam. Xét sự việc bán nước của Phiêu xin phép trình bày lại sự kiện Phiêu cùng đồng bọn bán nước lấy 2 tỷ USD và được Trung cộng ém nhẹm vụ Phiêu chơi giá Tàu có con trong “Những sự thật cần phải biết - Phần 23”.

Ngày 25/12/200, Trần Đức Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch DânHiệp Ước cắt 11.362 km2 trên vịnh Bắc bộ cho Trung cộng, là hành động cắt biển bán cho Trung cộng để lấy 2.000.000.000 Usd, để về chia chác cho Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải... để đổi lấy những cái gật của Khải, Kiệt v.v...

Sau vụ bán nước cho Trung Cộng, theo lời ông Hoàng Minh Chính cho biết thì không ai biết được ai trong bộ chính trị đã ký tên trong vụ bán nước này, Bộ chính trị cộng sản đã dấu nhẹm chuyện này và bí mật đã được bật mí và sau đây là những diễn biến về cuộc bán nước như sau:

1) Lê Khả Phiêu bị Trung cộng gài Mỹ Nhân Kế lấy cô Trương Mỹ Vân (Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và sinh được một bé gái. Phiêu không đem con về vì sợ tai tiếng đưa đến nhiều lần Trung Cộng gửi văn thư đòi lấn vùng biển vào tháng 1 năm 1999. Đồng thời đòi đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu Phiêu không hợp tác. Và buộc Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký bản hiến biển ngày 30 tháng 12 năm 1999.

2) Ngày 31 tháng 12 năm 1999 phái đoàn Trung Quốc cầm đầu do Tang Jiaxuan và tình báo Trung cộng sang Việt Nam, họ gặp kín Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề hiến đất,

3) Ngày 25 tháng 2 năm 2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn Duy Niên sang Trung cộng và Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đã đồng ý việc hiến thêm đất. Trung cộng nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đãi Nguyễn Duy Niên một cách nồng nhiệt với nhiều Mỹ Nữ ở nhà khách Diao-yu-tai ăn nhậu cùng Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan.

4) Bộ Trưởng Trung cộng Tang Jiaxuan gửi thư kín nhắn tin muốn gặp Bộ Trưởng cộng sản VN tại Thailand khi Tang Jiaxuan viếng thăm nước này. Ngày 26 tháng 7 năm 2000. Nguyễn Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay từ phi trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47 sáng sang Thailand gặp Bộ Trưởng Ngoại giao TC tại khách sạn Shangri-La Hotel Bangkok phía sau phòng Ballroom 2. Cuộc gặp rất ngắn ngủi. Tang giao cho Niên một chồng hồ sơ đòi cộng sản Việt Nam hiến thêm đất, biển trong hồ sơ ghi rõ TQ đòi luôn 50/50 lãnh hải vùng Vịnh Bắc Việt, đòi Việt Nam cắt 24, 000 sq Km vùng biển cho TQ. Ngày 28 tháng 7 bộ chính trị nhóm chóp bu họp kín.

5) Sau hai tháng họp kín và bàn bạc. Bộ chính trị cộng sản VN cử Phan Văn Khải qua gặp mặt Lý Bằng. Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất rời Việt Nam ngày 26 tháng 9 năm 2000 qua Bắc Kinh và được xe Limo chở từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân Dân vào trưa hôm đó. Lý Bằng cho Khải biết là hai tay Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân đã gặp nhau 2 lần cho vụ hiến đất rồi.

Lý Bằng cho biết Nông Đức Mạnh phải được cử làm Tổng Bí Thư sau khi Lê Khả Phiêu xuống, nếu không thì sẽ bị Trung cộng “đòi nợ cũ”, Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói với Lý Bằng là sẽ xem lại sự việc. Sau đó Lý Bằng bắt Khải ngồi chờ, nói là Chủ Tịch Giang Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó Khải được đưa đi gặp Giang Trạch Dân và cho Zhu Rongji hù dọa Khải nói: “Trung Quốc đã nắm trong tay Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh,... nếu không nghe lời TQ Khải sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị “chích thuốc”. Khải cúi đầu và run sợ, sau đó đòi về. Trước khi Khải về, một lần nữa Giang Trạch Dân nhắn Khải gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh chứ không nhắc tới tên người khác trong Quốc Hội cộng sản VN. Khải không được khoản đãi như một vị quốc khách vì tính tình bướng bỉnh không nghe lời đàn anh...”.

6) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao cộng sản Lê Công Phụng được Trần Đức Lương âm thầm phái đến Trung Quốc gặp quan chức tình báo của Trung cộng là Hoàng Di - cánh tay phải của Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung cộng. Di nói tiếng Việt rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một địa điểm X gần biên giới Việt, (Tỉnh Móng Cái Việt Nam). Theo bản báo cáo cho bộ chính trị cộng sản VN, Lê Công Phụng cho biết lúc đầu Hoàng Di vẫn khăng khăng đòi chia 50/50 với Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt “Beibu Bay” đòi lấy luôn đảo Bạch Long Vĩ sau đó Phụng, được bộ chính trị dặn trước là xin lại 6% của Vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì đã được lâu đời là của Việt Nam. Kết quả cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16, 000 Km2 vùng vịnh cho Trung cộng.

7) Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Trần Đức Lương từ Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và được đưa về Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân, theo tài liệu lấy được của tình báo Trung cộng. Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu chính thức quyết định thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của Khải và nhiều người trong quốc hội. Bản hiến chương hiến đất cho Trung Quốc được chính Giang Trạch Dân và đảng cs Trung Cộng trả cho số tiền là 2 tỉ USD được chuyển cho các quan chức cộng sản chi nhau.

8) Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào lúc 2 giờ trưa, Lý Bằng được cận vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân. Lý Bằng cho Lương biết là số tiền 2 tỉ dollar để mua 16, 000 km2 vùng vịnh Beibu của Việt Nam là hợp lý. Trần Đức Lương cám ơn Trung cộng về số tiền này... Sau cuộc gặp này thì Khải, Kiệt v.v.. đã đồng ý với quyết định bán đất cho Trung cộng vì có phần chia chác trong số tiền này. Lý Bằng nhắc lại chuyện Trung cộng đã bán vũ khí và hổ trợ cho cộng sản VN trong thời gian chiến tranh và số nợ trên Trung cộng dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan, Bản Dốc, Cao Bằng... Sau đó Lương được mời lên xe Limo và đưa về Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongji, Zhu Rongji không nói gì khác hơn là nhắc lại số tiền 2 tỉ USD sẽ được giao cho Việt Nam sau khi Lương trở về nước.

9) Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang Trung Quốc để gặp Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung Quốc đã mua vùng Vịnh Bắc bộ của Việt Nam (Beibu Bay) với giá 2 tỉ USD.

Hồ Cẩm Đào tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu. 
Thời gian 26-2-1999. Địa điểm Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh.


Để nêu rõ hơn hành động bán nước của Lê Khả Phiêu chúng ta có những bằng chứng cụ thể được trình bày sau đây.

Thứ nhất, ngày 26-2-1999 Tại Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào tiếp Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu. Theo ghi chép “Trung Quốc-Việt Nam (sách ảnh)”- Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa biên soạn. China Intercontinental Press, 2003, tr. 36 ghi chú: “Trong cuộc gặp gỡ này, phó chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã đạt được một số ghi nhớ đáng khích lệ trong việc nỗ lực hoàn thành tuyên bố chung về biên giới trên biển và đất liên với phía Việt Nam. Đồng chí tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam, Lê Khả Phiêu hoan nghênh nỗ lực của hai phía trong việc giữ hòa bình và ổn định trong các vấn đề biên giới. Mọi mâu thuẫn quá khư được hai bên thống nhất gác lại và mở ra chương mới đó là hợp tác chiến lược toàn diện trên cơ sơ núi liền núi, sông liền sông mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông đã dày công vun đắp...”.

Qua đoạn trích nêu trên chúng ta thấy gì? Đó là Phiêu chủ trương bán nước bằng việc ký các hiệp định cắt đất, biển để đổi lấy tiền và sự yên ổn và để tiếp nối sự nghiệp bán nước “núi liền núi và sông liền sông” mà Hồ Chí Minh đã thực hiện.

Thứ hai, theo hồi ký Trần Quang Cơ - bản thảo 2003 đã viết: “Ông Lê Khả Phiêu còn phải nhận lãnh trách nhiệm lịch sử trong một giai đoạn mà quan hệ đối ngoại, đặc biệt là với Trung Quốc, có rất nhiều thử thách. Nguyên tắc “hai nước xã hội chủ nghĩa phải cùng chống âm mưu của đế quốc xóa bỏ chủ nghĩa xã hội” xác lập trước Hội nghị Thành Đô (9-1990) đã được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và những đồng chí của ông đặt trên cả truyền thống cảnh giác nghìn năm trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc...”

Kể từ năm 1991, quan hệ giữa Hà Nội và Trung cộng bắt đầu được thúc đẩy bằng các “chuyến thăm hữu nghị”. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tăng dần nhịp độ đến Hà Nội: tháng 11-1992, Thủ tướng Lý Bằng; tháng 11-1994, Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch; tháng 6-1996, Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân; tháng 11-1996, Thủ tướng Chu Dung Cơ. Nhưng, có thể nói, phải đến chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới Bắc Kinh vào tháng 2-1999, công cụ “ý thức hệ” mới được Bắc Kinh khai thác ở “tầm cao” để đến gần hơn với Hà Nội.

Trong cuộc gặp thượng đỉnh này, Giang Trạch Dân đưa ra “hai phương châm” làm nền tảng cho quan hệ hai nước thể hiện trong “16 chữ vàng” và “4 tốt”. “16 chữ vàng” của Giang Trạch Dân là: “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Và “4 tốt” gồm: “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

“Hai phương châm” cùng với Bản Tuyên bố chung giữa Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu đưa ra trong chuyến đi được hai Đảng đánh giá: “Đã xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung Việt đã bước vào giai đoạn phát triển mới”.

Nhưng, như Đặng Tiểu Bình từng tuyên bố “Trung Quốc làm gì cũng có tính toán” - Đây là thời điểm Trung Quốc cần những quyết định của phía Hà Nội để kết thúc tiến trình đàm phán Hiệp định Biên giới. Và Phiêu đã làm những điều bán nước mà chúng ta thấy trên thực tế trong những năm qua.


Kẻ bán nước - Lê Khả Phiêu

Thứ ba, ngày 7-11-1991, trong chuyến đi Bắc Kinh của Đỗ MườiVõ Văn Kiệt, “Hiệp định tạm thời về việc giải quyết các công việc trên vùng biên giới hai nước”, Việt Nam - Trung cộng, đã được ký kết. Đường biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung cộng dài 1.406 km, có truyền thống lâu đời bắt đầu được phân định lại.

Đường biên giới truyền thống đó là cơ sở để người Pháp, sau khi chiếm Bắc Kỳ, đàm phán với triều đình Mãn Thanh, ký Công ước 26-6-1887 và Công ước bổ sung 20-6-1895. Đây là hai văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên xác định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, đường biên giới dài 1.406 km, từ Móng Cái đến biên giới Lào - Trung, chỉ có 341 cột mốc.

Năm 1955, ngay trong giai đoạn mà tình hữu nghị Việt - Trung đang được mô tả là như “môi với răng”, chính quyền Trung cộng đã có ý “đẩy lùi biên giới” sâu vào phía lãnh thổ Việt Nam: “Tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Yên Viên gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua… Cũng tại khu vực này, phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100m trên đường quốc lộ để xóa vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kilômét số 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này” (2)

“Tại khu vực Phia Un, mốc 94-95, thuộc huyện Trà Lĩnh, Cao Bằng, mới đầu phía Trung Quốc mượn con đường mòn rồi tự ý mở rộng mặt đường để ô tô đi lại được vào khu vực mỏ của Trung Quốc, đặt đường dây điện, đưa dân đến ở ngày càng đông, lập làng bản mới. Dựa vào ‘thực tế’ đó, từ năm 1956 họ không thừa nhận đường biên giới lịch sử chạy trên đỉnh Phia Un mà đòi biên giới chạy xa về phía Nam con đường sâu vào đất Việt Nam trên 500m. Lý lẽ của họ là nếu không phải đất của Trung Quốc sao họ lại có thể làm đường ô tô, đặt đường điện thoại được. Nguyên nhân chủ yếu việc họ lần chiếm là vì khu vực Phia Un có mỏ Mangan. Ở khu vực Trình Tường, Quảng Ninh, từ năm 1956, Trung Quốc tìm cách nắm số dân Trung Quốc sang làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải và nhiều hàng khác, đưa họ vào công xã Đồng Tâm thuộc huyện Đông Hưng, khu tự trị Choang, Quảng Tây.

Nhà đương cục Trung Quốc nghiễm nhiên biến một vùng lãnh thổ Việt Nam dài 6km, sâu hơn 1, 3 km thành sở hữu tập thể của một công xã Trung Quốc, thành lãnh thổ Trung Quốc. Từ đó họ đuổi người Việt Nam đã nhiều đời làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường dây điện thoại, tự cho phép đi tuần tra khu vực này, đơn phương sửa lại đường biên giới sang đồi Khâu Thúc của Việt Nam.

Trình Tường không phải là một trường hợp riêng lẻ, còn đến trên 40 điểm khác mà phía Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương tự như xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc (mốc 25, 26, 27) ở Lạng Sơn; Khâm Khau (mốc 17, 19 ở Cao Bằng; Tả Lũng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà Tuyên; khu vực xã Nặm Chay (mốc 2, 3) ở Hoàng Liên Sơn với chiều dài hơn 4km, chiều sâu hơn 1km, diện tích hơn 300 ha”. (3)

Chuyện Trung cộng tự ý di chuyển, lén lút đập phá, thủ tiêu các cột mốc, lấy tên bản của Trung Quốc đặt cho xóm của Việt Nam... có thể tìm thấy ở bất cứ địa phương nào trên vùng biên giới. Họ cũng không ngần ngại áp dụng những phương thức như vậy để lấn chiếm những vùng lãnh thổ nổi tiếng lâu đời của Việt Nam như Đồng Đăng, thác Bản Giốc.: “Ngày 20-2-1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc. Khi quan hệ hai bên còn hữu nghị, Trung Quốc đã xây dựng đường sắt vượt qua đường biên giới lịch sử 300m rồi coi điểm nối ray đó là biên giới. Họ trắng trợn ngụy biện rằng khu vực hơn 300m đường sắt đó là đất Trung Quốc vì không thể có đường sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác”. (4)

Theo Phan Văn Khải kể lại: “Thác Bản Giốc mình không thể nào lấy hết... Bãi Tục Lãm họ có ý đồ lấn thật. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Cố vấn Đỗ Mười cũng phải đấu với Trung Quốc trên tình hữu hảo mới được như vậy. Tôi, ông Vũ Khoan và ông Lê Khả Phiêu đã đấu tranh rất căng thẳng nhưng đôi bên cũng phải có nhân nhượng, chẳng thà mình có một phân định sau này còn có cơ sở để đấu tranh”. Qua đây cho thấy chính Khải và Phiêu đã xác nhận hành động bán nước của mình. Tại sao lãnh thổ của Việt Nam lại phải nhân nhượng? Và việc để mất thác Bản Giốc và bãi Tục Lãm mà Khải kể chính là hành động bán nước không thể chối cãi.

Thứ tư, ngày 16-5-1984, sau mười tám ngày dùng một lực lượng lớn tấn công, Trung cộng đã chiếm và chốt giữ hai mươi chín điểm dọc biên giới Việt Nam, trong đó có điểm cao 1509. Hàng ngàn người lính Việt Nam đã hy sinh trong các đợt phản công lấy lại hai mươi cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên bị Trung cộng chiếm đóng từ năm 1984. Nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh Biên giới, đa số hy sinh trong giai đoạn 1984-1985, có người hy sinh năm 1988 khi tái chiếm điểm cao 1509. Giai đoạn 1984-1985, theo ông Nguyễn Thanh Loan, người trông coi nghĩa trang: “Cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau”. Theo Đại tá Phó chỉ huy trưởng Biên phòng Hà Giang Hoàng Đình Xuất: “Từ khi chiếm được điểm cao 1509, Trung Quốc cho xây dựng trên đỉnh một pháo đài quân sự. Ở phía bên kia, Trung Quốc xây được đường xe hơi lên tận đỉnh trong khi bên mình dốc, hiểm trở. Theo nguyên tắc mà hai bên thống nhất, đường biên giới đi qua đỉnh, cắt đôi pháo đài mà Trung Quốc xây dựng trên cao điểm này, nhưng khi hoạch định biên giới, phía Trung Quốc cho rằng, đây là một khu vực có ý nghĩa thiêng liêng nên họ xin được giữ lại toàn bộ pháo đài để làm du lịch. Đau xót là các nhà lãnh đạo của chúng ta đã đồng ý. Phần Việt Nam nhượng Trung Quốc ở đây tuy chỉ có 0, 77 hecta nhưng, 1509 là một vị trí chiến lược. Từ trên pháo đài ấy có thể nhìn thấy từng chiếc ô tô ở thị xã Hà Giang”.

Tuy không bình luận trực tiếp trường hợp điểm cao 1509, nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm giải thích: “Tôi nghĩ, các anh ấy cũng biết (ý ám chỉ Đỗ Mười, Khải và Phiêu), nhượng một tấc đất là có tội, nhưng với một nước lớn như Trung Quốc thì tranh chấp phải được giải quyết để có được một biên giới hòa bình. Trước đó không ngày nào là không có khiêu khích”. Qua đây cho thấy rõ ràng Cầm thừa nhận Khải, Phiêu... đã nhượng (bán) đất cho Trung cộng.


Thượng tướng cộng sản Ngô Xuân Lịch chúc và Lê Khả Phiêu tròn 80 tuổi


Thứ năm, việc bán nước của Phiêu còn được thể hiện thông qua một số chứng nhân là quan chức cộng sản hé lộ. Nguyễn Văn An nguyên chủ tịch QH cộng sản cũng thừa nhận: “Nếu để ông Phiêu tiếp tục giữ chức thì sẽ dẫn đến tiền lệ tổng bí thư vi phạm nguyên tắc cả đối nội và đối ngoại”. Về đối ngoại, ông An nói: “Ông Lê Khả Phiêu gặp Giang Trạch Dân không theo con đường chính thống bằng quan hệ Đảng, Nhà nước mà theo con đường tình báo”. Theo Nguyễn Đình Hương, thành viên Ban Chuyên án A10: “Tháp tùng chuyến đi ấy của Lê Khả Phiêu gồm Trần Đình Hoan, Nguyễn Mạnh Cầm và Phó Tổng cục trưởng Tổng cục II Nguyễn Chí Vịnh. Vịnh bố trí một cuộc gặp giữa ông Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân. Khi gặp, cả ông Nguyễn Mạnh Cầm và ông Trần Đình Hoan cùng đi nhưng phía Trung Quốc ngăn ông Cầm và ông Hoan, chỉ cho Vịnh vào. Theo báo cáo của Vịnh thì hội đàm cũng không có thỏa thuận riêng gì nhưng có nhiều người đặt vấn đề trong đó có Trần Đình Hoan”.

Theo Lê Khả Phiêu thì đây là một cuộc gặp theo đề xuất của Giang Trạch Dân, Tuy nhiên, theo Nguyễn Mạnh Cầm, trong khi ông ta bị chặn lại thì phía Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền vẫn vào ngồi cùng Giang Trạch Dân. Lê Khả Phiêu giải thích: “Tôi gặp Giang Trạch Dân hai lần, lần thứ hai, hai bên thống nhất là nên có gặp riêng để bàn về biên giới và Biển Đông. Trước cuộc gặp tôi có xin ý kiến Bộ Chính trị nhưng nhiều anh quên. Tôi và Giang Trạch Dân chỉ thỏa thuận, trong vấn đề Biển Đông, cái gì chỉ liên quan đến hai nước thì đàm phán song phương, cái gì còn liên quan đến quốc gia khác thì đàm phán đa phương. Cho đến bây giờ thỏa thuận này vẫn còn được thực hiện”.

III. Tội tham nhũng:

Thứ nhất, theo thông tin được đoàn đồng hương Thanh Hóa thăm nhà Phiêu được mô tả như sau:

“Đoàn mấy chiếc xe du lịch mới tinh bóng loáng đỗ trước ngôi nhà mới kín cổng cao tường của TBT Lê Khả Phiêu. Những bức hình đầu tiên cho thấy mấy chiếc xe du lịch mới tinh bóng loáng đỗ xịch trước một ngôi nhà mới kính cổng cao tường ở số 7/36 C1 Lý Nam Đế, Hà Nội. Rồi từ trong xe bước ra bảy, tám người mặc veston thẳng nếp– và cả quân phục, khệ nệ khiêng những thùng quà hiếm quý biếu Tết để tặng cựu lãnh tụ đảng CSVN từng cho rằng mình là lãnh đạo liêm khiết, đi đầu trong việc chống tham nhũng.

Sau khi cánh cổng gỗ - hẳn là loại gỗ quý - mở ra, đoàn biếu Tết, được biết là Ban Liên Lạc Đồng Hương Thanh Hóa ở Hà Nội gồm các quan chức và lãnh đạo của những công ty quan trọng, lần lượt đi qua cái cổng màu nâu to lớn uy nghi này, báo hiệu một biệt thự sang trọng bên trong được điểm tô nổi bật bằng những loại cây cảnh đắt tiền ở tiền sảnh.

Hình ảnh tiếp theo cho thấy ông Lê Khả Phiêu, trong bộ veston mầu sậm, đã tươi cười chờ sẵn ở phòng khánh hoành tráng với những bộ bàn ghế gỗ quý đánh mầu nâu bóng loáng, lót nệm hoa đỏ kê liên tiếp nhau, cùng những chậu lục bình trưng bày hoa màu vàng, xanh, hồng, đỏ...

Sau màn bắt tay, cười nói, hỏi thăm nhau vồn vã, hình ảnh cho thấy dường như là màn trao hay khui lễ vật gì đó - có kèm theo những phong bì không rõ nội dung - trong sự cung kính khúm núm của những khách đồng hương.

Rồi những vị khách của người từng cầm đầu đảng chứng kiến báu vật Trống Đồng Đông Sơn – mà luật pháp hiện hành cấm cá nhân sở hữu - được gia chủ trưng bày nổi bật...”


Ban liên lạc Đồng hương Thanh Hóa tại Hà Nội đã có buổi đến thăm và giao lưu với bác Phiêu tại nhà riêng tại ngõ 34A Trần Phú (ngôi nhà bác mới chuyển về từ đường Hoàng Diệu).

Đại diện của Ban liên lạc gồm có:

Ông Lê Xuân Thảo - Trưởng Ban Đồng hương Doanh nghiệp TH,
Ông Lê Thế Chữ - Trưởng Ban liên lạc Đồng hương Tỉnh,
Ông Hoàng Văn Đoàn - Phó Trưởng ban Doanh nghiệp,
Ông Lữ Thành Long - TGĐ Công ty Misa,
Ông Nguyễn Hồng Chung - Chủ tịch Công ty Luật Đại Việt,
Ông Bùi Việt Hà - Giám đốc Công ty HINCO,
Ông Nguyễn Hữu Hùng - Công ty Truyền thông Dầu khí Việt Nam,
Lê Xuân Tiến Trung - Công ty Việt FT và một số thành viên khác.

Sau đây là một số hình ảnh buổi gặp mặt Lê Khả Phiêu:












Qua loạt ảnh trên chúng ta thấy điều gì? Đó là trong khi đại bộ phận dân sống xa hoa thì Phiêu có cuộc sống quá sức xa hoa. Ngoài căn nhà đồ sộ thì Phiêu còn trưng nào là Ngà voi, Trống đồng, Tranh quý, bàn gỗ quý v.v... Vậy nếu liêm khiết thì tiền đâu ra? Điều đó nói lên tất cả bản chất thật của Lê Khả Phiêu.

Thứ hai, ngay sau khi Lê Khả Phiêu bị hạ bệ thì ban kiểm tra trung ương cộng sản đã có kết luận về Phiêu ngày 26/10/2002 như sau: “Đồng chí Lê Khả Phiêu có dấu hiệu bao che cho một số hành động tham nhũng của một số cá nhân dưới quyền. Đặc biệt, đồng chí Lê Khả Phiêu có những quan hệ trên mức tình cảm đồng chí về mặt tài chính với một số đối tượng đang được bộ công an truy xét...” (5)

Vụ này sau đó đã chìm xuồng nhưng có thể nói với những gì quan sát cuộc sống và căn nhà Phiêu thì đúng là Phiêu hoàn toàn không thể vô can trong việc tham nhũng.


Phiêu đang thể hiện “mênh mông tình dân” 

IV. Kết luận:


Lê Khả Phiêu là một trong những tên tội đồ của dân tộc. Hắn đã bán nước cho Tầu mà theo như tổ tiên đã dạy thì phải đáng “tru di cửu tộc”. Ngoài ra hắn còn là một tên tham nhũng cỡ bự trên xương máu của nhân dân Việt Nam. Chúng ta cần phải tiếp tục lên án tội ác của Phiêu cũng như bè lẽ cộng sản để một ngày nào đó dân tộc Việt nam chúng ta lôi chúng ra trước ánh sáng của công lý. Và có thể kết luận rằng cộng sản Việt Nam tất cả những tên lãnh đạo cho đến những tên đàn em đều vô liêm sỉ như nhau mà thôi.

5/10/2013
danlambaovn.blogspot.com

________________________________


Chú thích:
(2) Trích báo cáo ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, Sài Gòn Giải Phóng (SGGP) 19-3-1979.)
(3) Trích báo cáo ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, SGGP 19-3-1979).
(4) Trích báo cáo ngày 15-3-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, SGGP 19-3-1979).
(5) BKTTW – số 12/BC – ngày 26/10/2002).